CÂU CHUYỆN TÒA ÁN – HÔN NHÂN CHÂN THẬT LUÔN ĐƯỢC BÊNH VỰC

HÔN NHÂN CHÊNH LỆCH TUỔI TÁC LÀ BÌNH THƯỜNG

Trong thời đại ngày nay và cần chứng minh là chân thật khi bảo lãnh

TÓM LƯỢC
Ngày 27/3/2020, Tòa Án Liên Bang Canada ra phán quyết chấp thuận đơn kiện của ông BVN (gốc Việt), kiện Ủy ban Di Trú và Tị Nạn đã bác đơn xin cứu xét của mình sau khi hồ sơ bảo lãnh vợ ông là bà B. (người Việt Nam) bị Bộ Di Trú từ chối.
Đây là lần thứ hai ông BVN nộp đơn bảo lãnh vợ con, vì lần đầu tiên được nộp vào năm 2010, hồ sơ bị từ chối ở cả hai cấp Bộ Di trú lẫn Ủy ban Di trú & Tị nạn (2012). Lúc đó ông BVN không tiến hành kiện tiếp lên Tòa Liên bang như lần này.
Ông BVN vốn đã từng có gia đình từ 1986, có ba con chung và vợ chồng ông li dị từ 2000. Năm 2003 ông BVN gặp bà B tại Việt Nam, bà B làm trong một tiệm hớt tóc, họ quen nhau đến 2009 thì cưới nhau.
Năm 2013 và 2017, họ có với nhau hai người con sau khi hồ sơ bảo lãnh bị từ chối lần đầu. Suốt thời gian đó, ông BVN đều về Việt Nam thăm vợ con hàng năm.

Năm 2016 ông BVN nộp hồ sơ bảo lãnh vợ con lần nữa, không may hồ sơ lại bị từ chối bởi Bộ Di trú, và sau đó vào năm 2019 đơn xin cứu xét lên Ủy ban Di Trú và Tị Nạn cũng bị từ chối. Ông BVN nộp đơn kiện các quyết định này lên Tòa Án Liên bang dẫn đến kết quả này.
Sau khi xem xét nhiều yếu tố, quan tòa nhận thấy Ủy ban Di Trú và Tị Nạn đã không xem xét hợp lý các bằng chứng “hợp lý” của đương đơn nộp chứng minh hôn nhân của mình là thật, bao gồm: yếu tố vợ chồng có hai con chung, chồng đi về thăm hỏi vợ con thường xuyên suốt nhiều năm, hỗ trợ nhau về tinh thần lẫn tài chính… Các chi tiết Ủy ban đưa ra nhằm phủ định đơn của ông BVN lại được Tòa chỉ ra là thiếu căn cứ thực tế và thiếu tính hợp lý, bao gồm: sự chênh lệch tuổi tác giữa ông BVN và bà B., sự chênh lệch thông tin cung cấp trong các buổi phỏng vấn hai đương sự và các con nhỏ…
Do đó, đơn xin cứu xét của ông BVN được chấp thuận bới Tòa Liên Bang, sẽ được trả về Ủy ban Di Trú và Tị Nạn để xem xét lại, bởi một hội đồng mới của Ủy ban.
 
 
NHẬN ĐỊNH TỪ CHUYÊN GIA DI TRÚ CANADA
  1. Với góc nhìn của cá nhân người làm tư vấn di trú, thì cuộc hôn nhân 10 năm có hai con chung của ông BVN và bà B là thật. Sự quan tâm thăm hỏi thường xuyên của ông BVN về với vợ con cũng như sự quyết tâm đấu tranh cho sự thật của ông thông qua nhiều lần bảo lãnh và tranh kiện cũng chứng tỏ điều đó.
  2. Hôn nhân chênh lệch tuổi tác, ví dụ như trong trường hợp này, là bình thường ở thời đại ngày nay, và sẽ không còn là rào cản chính cho việc bảo lãnh di trú nếu hôn nhân chứng minh được quá trình hình thành hợp lý.
  3. Quyết định của Tòa Liên bang là hợp tình, hợp lý và công bằng.
Dịch & thảo luận: Andrew Duong, BSc, RCIC (7-2023)

Nguồn: Federal Court Canada

DISCLAIMER – KHUYẾN NGHỊ

Nội dung được chia sẻ của bài viết mang ý nghĩa cung cấp thông tin tích cực và hữu ích đến đại chúng có nhu cầu di trú để tham khảo, và không phải là tư vấn di trú chính thức. Do vậy, dù nội dung có thể thiếu/ sai sót nhưng do chúng không mang tính đảm bảo cho bất kỳ kết quả áp dụng nào, chúng tôi miễn trừ mọi trách nhiệm liên quan.

Nội dung được trích dẫn từ thông tin chính thức trên website của Tòa Án Liên Bang Canada, công khai cho mọi người truy cập. Nhận định của cá nhân người viết mang tính xây dựng, tích cực, không hướng đến cá nhân nhân vật liên quan, với mong muốn cải thiện nền di trú Canada lành mạnh văn minh.